nghe chú hát, thấm vào lòng từng câu, rất xúc động, nếu tâm trạng đang buồn mà nghe có lẽ cháu sẽ khóc. Cảm ơn những người nghệ sỹ gạo cội như chú đã thổi hồn vào câu hát.
Nhìn lại Cuộc đời sao mà ngắn ngủi nhanh quá,mới đó mà bác đã 75t rồi,1000 năm và mãi mãi cũng không bao giờ kím được thế hệ vàng bất hủ huyền thoại này nữa đâu
Bác năm nay đã 80 nhưng bác hát hay quá. Nhưng bác thật tuyệt vời khi hát và sáng tác. Chỉ có bác là số 01 mà thôi ko có người thứ hai ❤️❤️❤️🇻🇳 yêu và mến mộ
Tôi yêu nhạc chế Linh mấy mươi năm roi.giọng ca buồn..nghẹn ngào nức nở đi Theo tôi bên cạnh CD vui...buồn...và cả nước mắt...chế linh...thần tượng của tôi
Thực sự Chế Linh "xuống phong độ" do uống rượu, không còn giữ vững giọng ca như Thanh Tuyền,Tuấn Ngọc, Hương Lan, Hoàng Oanh...chất da diết vẫn còn nhưng bài hát nghe "mệt mõi"
Thôi đừng nói làm chi khi tình yêu tan vỡ đừng nói làm chi, đừng nói làm chi em ơi Em đi đường em, tôi đi đường tôi Tình nghĩa đôi ta có thế thôi đừng trách người ơi cuộc sống nổi trôi Bóng mê đưa đường tôi xa người Giờ trở về đây để tìm em, em đã lấy chồng. Em ơi em ơi, ai ngờ ngày về đây thấy lòng mình đổi thay Em ơi em ơi, mối tình ấy đã vơi thôi đành ta phải lìa đôi. Thôi đừng nói làm chi khi tình yêu tan vỡ đừng nói làm chi đừng nói làm chi em ơi Em đi đường em, tôi đi đường tôi Tình nghĩa đôi ta có thế thôi Tình nghĩa còn đâu vùi xuống mộ sâu với bao kỷ niệm thuở ban đầu Giờ gởi lại đây để ngày sau nhắc nhớ thêm sầu.
*Tiểu Sử Nhạc Sỹ Văn Giảng* Văn Giảng (1924 - 2013) là một nhạc sĩ Việt Nam có những sáng tác thuộc nhiều thể loại. Ông là tác giả của nhiều bản hùng ca. Khi viết tình ca, ký tên Thông Đạt, ông đã viết bản Ai về sông Tương nổi tiếng. Ngoài ra Văn Giảng còn những bút danh khác như Nguyên Thông, Nguyên Đàm & Tiến Tài, Anh Phương & Nguyên Diệu Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 5 năm 1924 tại Huế. Xuất thân trong một gia đình trung lưu có truyền thống về âm nhạc; ông nội của Văn Giảng là một nhạc sĩ cổ nhạc, ngay từ bé Văn Giảng đã tỏ ra những năng khiếu về âm nhạc. Ông bắt đầu tập chơi mandoline Văn Giảng từng dạy nhạc ở Huế, rồi ông vào Sài Gòn thi tú tài và tốt nghiệp cử nhân ở đó. Sau khi thi đỗ Anh văn ở Hội Việt Mỹ, Văn Giảng trúng tuyển và ông sang Hoa Kỳ học âm nhạc tại Hawaii và Bloomington. Tốt nghiệp xuất sắc, ông được học bổng để tiếp tục nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó Văn Giảng trở về nước và được đề cử làm giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế. Phần lớn các sáng tác của Văn Giảng thuộc thể loại hùng ca như Thúc quân (1949), Lục quân Việt Nam (1950), Đêm Mê Linh (1951), Quân hành ca (1951), Qua đèo (1952), Nhảy lửa (1953)... nhưng ông còn viết tình ca với bút danh Thông Đạt, nổi tiếng nhất là nhạc phẩm Ai về sông Tương. Ai về sông Tương được Thông Đạt viết vào năm 1949. Về ca khúc này có một giai thoại: Những năm cuối thập niên 1940 đó, Văn Giảng có chơi thân cùng ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa Huế, một số hành khúc của Văn Giảng cũng được nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành. Một lần Tăng Duyệt nói đùa ngụ ý rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng. Văn Giảng nghe như vậy và không trả lời. Sau đó ông viết bản Ai về sông Tương và ký tên Thông Đạt. Ai về sông Tương được tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhanh chóng nổi tiếng. Sau nhiều lần được nghe bản nhạc đó trên đài, Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài Ai về sông Tương là ai không. Tăng Duyệt muốn tìm mua lại bản quyền để xuất bản nhạc phẩm đó nhưng Văn Giảng trả lời không biết. Một lần hai người bạn của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ tới chơi và tình cờ nhìn thấy bản thảo của Ai về sông Tương. Nhờ đó Tăng Duyệt mời biết Văn Giảng chính là Thông Đạt, tác giả của bàn tình ca nổi tiếng đó. Bút danh Thông Đạt chính là tên ghép pháp danh Nguyên Thông của ông và Tâm Đạt của người vợ. Ngoài Thông Đạt, Văn Giảng còn có một bút danh khác nữa là Nguyên Thông khi ông viết những ca khúc về Phật giáo. Dưới bút hiệu này, ông đã sáng tác khoảng vài chục ca khúc về Phật giáo, đóng góp không nhỏ cho nền Phật nhạc của Việt Nam. Các bài của ông được thường xuyên hát lên trong các buổi tụng niệm tại các chùa từ Huế vào đến Sài Gòn. Bài Mừng ngày Đản Sanh của ông được dùng làm ca khúc chính thức cho ngày Phật Đản đến tận bây giờ. Nguyên Thông đã được ký dưới những bản Từ Đàm quê hương tôi, Mừng ngày Đản Sanh, Ca Tỳ La Vệ, Vô thường, Hoa cài áo lam Trong thời gian làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư âm nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường Sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học, nhạc sĩ Văn Giảng có sáng tác và ấn hành một tập nhạc dành cho thiếu nhi mang tên Hát mà học gồm có 10 ca khúc: Đến trường, Chơi ná, Chê trò xấu nết, Mèo chuột, Tham mồi, Gương sáng Lê Lai, Quang Trung hùng ca, Trăng Trung thu, Chúc xuân và Tạm biệt. Cũng trong lãnh vực âm nhạc, nhờ xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc, Văn Giảng thích tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể nhìn bài bản mà trình tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành lập ban cổ kim hòa điệu Việt Thanh, ban nhạc đầu tiên trong nước dưới hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc khí tranh, tỳ, nhị huyền, nhị hồ, đàn nguyệt... hoà tấu chung với dương cầm, tây ban cầm, đại hồ cầm... Trong lĩnh vực này, ông đã hoàn thành tác phẩm độc đáo Ai đưa con sáo sang sông, một bản đại hòa tấu, thời lượng 60 phút, trình diễn bởi các nhạc sĩ cổ truyền. Ông cũng đã soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc, hoàn thành quyển Kỹ thuật hoà âm dày 350 trang được dùng làm tài liệu dạy âm nhạc ở các trường. Sau Tết Mậu Thân 1968, cảm thấy sinh sống ở Huế bất an (Tăng Duyệt, bạn thân của ông, bị giết trong biến cố này) nhạc sĩ Văn Giảng vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 1969. Ở đó, Văn Giảng dạy nhạc tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền hình và soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia, Sóng Nhạc. Cũng trong thời gian này, với bút danh Thông Đạt, ông viết tiếp một số tình khúc khác. Đồng thời, Văn Giảng được Bộ Văn hóa Giáo dục đề cử làm Trưởng phòng Học vụ Nha Mỹ thuật, đảm trách học vấn của các trường Âm nhạc Sài Gòn, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật. Năm 1970, ông được huy chương vàng Giải Văn học Nghệ thuật Quốc gia của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với tác phẩm Ngũ tấu khúc (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền Đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại Osaka, Nhật Bản. Sau 1975, nhạc sĩ Văn Giảng ở lại Việt Nam cho đến năm 1981 ông vượt biên đến đảo Natuna, Indonesia, sau chuyển đến đảo Pulau Galang. Ở đây, trong 6 tháng, Văn Giảng sáng tác một số bài nói lên thân phận của những người lưu vong mà bài đầu tiên là "Natuna người tình đầu" cùng một số 70 ca khúc khác. Ngày 20 tháng 5 1982, Văn Giảng định cư tại Úc, ở đây, ông tiếp tục con đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh ngữ, sách nhạc lý như cách dùng hợp âm, tự học tây ban cầm, hòa âm, sáng tác, học hát, học đàn... Văn Giảng còn sáng tác thêm nhiều tình khúc được tập hợp thành một số tập, như 12 tình khúc (Tập I), 12 Tình khúc (Tập II). Văn Giảng mất ngày 9/5/2013 ở thành phố Footscray, tiểu bang Victoria, nước Úc. Sau khi rải cốt tro ông trên biển vào ngày 17/5, vợ ông lên cơn đau tim và mất sau khi đưa vào bệnh viện chiều hôm đó. Tác phẩm Văn Giảng Chê Trò Xấu Nết Chơi Ná Chúc Xuân Có Thế Thôi Đêm Mê Linh Đến Trường Đoàn Người Phiêu Lưu Gương Sáng Lê Lai Lục Quân Việt Nam Mèo Chuột Nam Quan Hận Khúc Nhạc Bình Minh Nhảy Lửa Quan Trung Hùng Ca Sầu Ô Thước Sĩ Nông Công Thương Tạm Biệt Tham Mồi Thanh Niên! Thanh Niên! Thúc Quân (Hồn Quân Reo) Trăng Trung Thu Nguyên Thông Bao La Vô Tận Bờ Mê Bến Giác Buông Xả Đời Sáng Đức Phật Giả Hợp Giòng Sinh Diệt Hãy Tự Giác Mong Tỉnh Ngộ Mừng Ngày Đản Sanh Tâm Bệnh Tìm Đâu Xa Từ Đàm Quê Hương Tôi Vũ Khí Chơn Tâm Nguyên Đàm Thư Người Chiến Binh (1967) Thông Đạt Ai Về Sông Tương Áo Cưới Màu Hoa Bàng Hoàng Đôi Mắt Huyền Hoa Cài Mái Tóc Luyến Quê Năm Nay Em Mấy Tuổi? Thương Tà Áo Bay (lời thơ của Nguyên Đàm) Tình Em Biển Rộng Sông Dài Tình Thôn Nữ Xin Cho Tôi Giấc Mộng Bình Yên Xin Đừng Bỏ Nhau Xin Lễ Cưới Em Theo Wikipedia
Thôi đừng nói làm chi khi tình yêu tan vỡ đừng nói làm chi, đừng nói làm chi em ơi Em đi đường em, tôi đi đường tôi Tình nghĩa đôi ta có thế thôi đừng trách người ơi cuộc sống nổi trôi Bóng mê đưa đường tôi xa người Giờ trở về đây để tìm em, em đã lấy chồng. Em ơi em ơi, ai ngờ ngày về đây thấy lòng mình đổi thay Em ơi em ơi, mối tình ấy đã vơi thôi đành ta phải lìa đôi. Thôi đừng nói làm chi khi tình yêu tan vỡ đừng nói làm chi đừng nói làm chi em ơi Em đi đường em, tôi đi đường tôi Tình nghĩa đôi ta có thế thôi Tình nghĩa còn đâu vùi xuống mộ sâu với bao kỷ niệm thuở ban đầu Giờ gởi lại đây để ngày sau nhắc nhớ thêm sầu.
Nhớ dạo trước có lẽ sân khấu nói rằng ông già rồi nên nghĩ cho lớp trẻ tiến thân nhưng Chế Linh vẫn thương cái nghiệp cầm ca và ông đã chứng tỏ bằng giọng hát của mình còn rất hay. Hôm nay thì có lẽ ông đã ko cưỡng lại được thời gian
Tuy nhiên ông vẫn là một danh ca rất chuyên nghiệp và chuẩn ông vẫn chờ tiếng đờn cho đúng nhịp lời ca, nói thiệt Chế Linh ko có truyền thừa vì ko ai có thể mang cái hồn thời cuộc hồn lính hồn dân tộc bản địa như ông, tui nghĩ Chế Linh ko nên tiếp tục hát trên PBN, nơi được coi là trung tâm âm nhạc vn hải ngoại nơi có nhiều sự ganh đua đặc biệt là giới trẻ, níu muốn hát thì ông nên chọn ASIA trung tâm nhạc lính hay Vân Sơn phù hợp với tinh thần dân tộc vùng miền hơn, chúc ông mạnh dỏi
Hồi xưa mấy danh ca thế hệ vàng hát cảm xúc đầy tình cảm bao nhiêu,thì thế hệ trẻ bây giờ càng ngày càng hát nhạc nhẽo bấy nhiêu,mà cũng dễ hiểu thôi,cs thời chiến khác với cs thời bình ờ chỗ đó,nên mãi mãi không bao giờ kím lại thế hệ thời xưa đâu
Bác Chế Linh hát ở thuý nga cũng chả làm sao cả. Dù cho thế hệ trẻ có ganh đua nhau như nào thì ở thuý nga bác vẫn có một chỗ đứng nhất định, chả phải tranh đua với ai cả
Tina Truong đưng bao h noi như z ban ơi....luc bac chê linh con tre hat hay sao ko noi...bgiơ lai noi như vây....ngươi ngê sy ca đơi ca hat lam nghê thuât...đên bgiơ thi noi như vây...ngươi nghê sy piêt 1ngay se bi lang quên....đơi bac vơi nghê sy qua...ma ban noi như z...ban ko đi hat nhưng 1ngay ban se gia...ko ai nhơ tơi cung giông như z đo...sông nên an ui nhau đo ban