Nhà Mồ Ba Chúc - Nơi Lưu Giữ Chứng Tích Tội Ác Pôn Pốt Thật may mắn là mình và các bạn đã được sinh ra vào thời bình, chưa từng chứng kiến và trải qua thời kì khóc liệt của chiến tranh là như thế nào. Nhà mồ Ba Chúc được xây dựng sau khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam giữa Việt Nam và Campuchia kết thúc năm 1979. Nhà mồ Ba Chúc nằm ở thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Đây là di tích lịch sử cấp quốc gia được chính phủ Việt Nam công nhận từ tháng 7 năm 1980. Nơi đây lưu giữ 1.159 bộ hài cốt trong số 3.157 người dân vô tội bị pôn pốt thảm sát , chính vì thế được gọi là nhà mồ.
phương châm mình đi phượt là bình dân và chia sẻ những địa điểm, cung đường phượt, đam mê du lịch của cá nhân mình đến với các bạn cùng chung đam mê với mình, nên những chỗ nào không OK là mình next liền, chia sẻ cho các bạn thông tin liền ngen.. 🥰🥰
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời vào tháng 5 năm 1867 tại Cù lao Ba (huyện An Phú, tỉnh An Giang ngày nay), do ông Ngô Lợi sáng lập. Ông sinh tại Mỏ Cày - Bến Tre, là sỹ phu Cần Vương, tham gia khởi nghĩa ở vùng Mỹ Tho - Tiền Giang, bị giặc truy nã, ông chạy vào vùng Thất Sơn - An Giang ẩn thân. Khi mới ra đời, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được ông Ngô Lợi gọi là đạo Thờ ông bà, sau này tín đồ gọi đạo của mình là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Việc truyền đạo được ông Ngô Lợi thực hiện qua việc chữa bệnh, khi bệnh dịch đang hoành hành. Khi mới sáng lập, ông gắn việc truyền đạo với quá trình tập hợp nông dân khai hoang lập ấp, xây dựng căn cứ cách mạng. Trong quá trình ổn định cuộc sống của tín đồ ở núi Tượng, ông Ngô Lợi đã cho xây dựng chùa miếu để thực hành nghi lễ, việc truyền đạo rộng rãi ở vùng Thất Sơn và các vùng xung quanh.
31:15 ở Thế kỷ 19 là thời kỳ chế độ phong kiến ở nước ta suy tàn, nhân dân phải chịu cảnh lầm than khổ cực. Khi đó, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta (1858). Trong cảnh nước mất, nhà tan, người nông dân mất nhà cửa, ruộng đất, gia đình ly tán, cuộc sống của nhiều người tưởng chừng vô vọng. Trước bối cảnh đó, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã ra đời như một “phương thuốc” cứu thế cho một bộ phận nông dân Nam bộ. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời vào tháng 5 năm 1867 tại Cù lao Ba (huyện An Phú, tỉnh An Giang ngày nay), do ông Ngô Lợi sáng lập. Ông sinh tại Mỏ Cày - Bến Tre, là sỹ phu Cần Vương, tham gia khởi nghĩa ở vùng Mỹ Tho - Tiền Giang, bị giặc truy nã, ông chạy vào vùng Thất Sơn - An Giang ẩn thân. Khi mới ra đời, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được ông Ngô Lợi gọi là đạo Thờ ông bà, sau này tín đồ gọi đạo của mình là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Việc truyền đạo được ông Ngô Lợi thực hiện qua việc chữa bệnh, khi bệnh dịch đang hoành hành. Khi mới sáng lập, ông gắn việc truyền đạo với quá trình tập hợp nông dân khai hoang lập ấp, xây dựng căn cứ cách mạng. Trong quá trình ổn định cuộc sống của tín đồ ở núi Tượng, ông Ngô Lợi đã cho xây dựng chùa miếu để thực hành nghi lễ, việc truyền đạo rộng rãi ở vùng Thất Sơn và các vùng xung quanh. Trong thời gian không lâu, đã có rất nhiều người đi theo ông để học đạo. Năm 1870, Ngô Lợi chính thức nhận danh hiệu Đức Bổn sư.
Hình thức và cách thức tuyên truyền, phát triển đạo của Đức Bổn sư Ngô Lợi là thể hiện nội dung “Tu nhân - học Phật” qua các bộ kinh hoặc chuyển thành các thể thơ dưới dạng Sấm vãn với lời lẽ bình dị, mộc mạc dễ nhớ và dễ đi vào lòng người, rất phù hợp với trình độ và điều kiện hoàn cảnh của nông dân lúc bấy giờ. Do đó, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhanh chóng được người nông dân tiếp nhận. Sau khi ông Ngô Lợi viên tịch tại núi Tượng (1890), đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa không có người kế vị, các mối đạo đều giao cho ông Trò, ông Gánh phụ trách. Không lâu sau, một số ông Gánh rời vùng Thất Sơn đi các nơi khác truyền đạo. Vì vậy, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa hình thành hai hệ thống: Một hệ thống được duy trì ở các làng được coi là thánh địa của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa như: An Định, An Hoà, An Thành, An Lập thuộc vùng Thất Sơn - An Giang. Tín đồ ở các làng này được gọi là tín đồ nội thôn. Hệ thống thứ hai là tín đồ ở những nơi mà các ông Gánh đi truyền đạo như Kiên Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu… hệ thống này được gọi là ngoại thôn.
Tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có chung niềm tin tôn giáo sâu sắc, đó là thực hiện “Tứ đại trọng ân”. Họ gọi nhau là thân bằng và có tính cộng đồng, bởi quan điểm yêu thương đồng bào đã thấm nhuần trong tư tưởng của họ. Từ khi Đức Bổn sư Ngô Lợi truyền bá đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến trước năm 1975, số lượng tín đồ phát triển rất đông, khoảng hơn 10 vạn người. Sau giải phóng miền Nam, đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội của tín đồ được nâng lên, nhưng nhu cầu dựa vào yếu tố tôn giáo của một bộ phận tín đồ nhạt dần, làm cho tôn giáo nội sinh này khó có thể phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động. Giáo lý, giáo luật và lễ nghi của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa Tôn chỉ hành đạo của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là “Hành Tứ ân - Sống hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết dân tộc”. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lấy đạo hiếu làm đầu, không thừa nhận ly gia cắt ái, không đặt ra giới luật khắt khe và không có sự phân biệt, kiêng kị khác nhau giữa chức sắc và tín đồ. Cũng giống như giáo lý của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là Tu nhân - học Phật, nhưng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã phát triển ở nhiều khía cạnh và cụ thể hoá hơn.
Tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có chung niềm tin tôn giáo sâu sắc, đó là thực hiện “Tứ đại trọng ân”. Họ gọi nhau là thân bằng và có tính cộng đồng, bởi quan điểm yêu thương đồng bào đã thấm nhuần trong tư tưởng của họ. Từ khi Đức Bổn sư Ngô Lợi truyền bá đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến trước năm 1975, số lượng tín đồ phát triển rất đông, khoảng hơn 10 vạn người. Sau giải phóng miền Nam, đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội của tín đồ được nâng lên, nhưng nhu cầu dựa vào yếu tố tôn giáo của một bộ phận tín đồ nhạt dần, làm cho tôn giáo nội sinh này khó có thể phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động. Giáo lý, giáo luật và lễ nghi của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa Tôn chỉ hành đạo của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là “Hành Tứ ân - Sống hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết dân tộc”. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lấy đạo hiếu làm đầu, không thừa nhận ly gia cắt ái, không đặt ra giới luật khắt khe và không có sự phân biệt, kiêng kị khác nhau giữa chức sắc và tín đồ. Cũng giống như giáo lý của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là Tu nhân - học Phật, nhưng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã phát triển ở nhiều khía cạnh và cụ thể hoá hơn.
Về tu nhân: Đức Bổn sư Ngô Lợi dạy tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa phải tu nhân vì phải trau dồi đạo đức thì mới hoàn thành tốt công việc và sống tốt với mọi người trở thành người có ích cho xã hội. Tu nhân có nghĩa là phải thực hiện tứ đại trọng ân: ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo và ân đồng bào. Ân tổ tiên, cha mẹ: cha mẹ là người có công sinh thành dưỡng dục ta, vì vậy đền đáp công lao trời biển ấy mới xứng đáng là đạo làm người. Đồng thời phải biết ơn ông bà, tổ tiên là thế hệ đã sinh thành ra cha mẹ. Để đền đáp công ơn tổ tiên, cha mẹ ta phải làm những điều tốt đẹp, làm vui lòng cha mẹ, tránh những điều xấu ảnh hưởng đến tổ tiên, ông bà. Bên cạnh đó, ta phải biết chăm lo cúng giỗ tổ đường. Chính xuất phát từ việc phải báo hiếu cha mẹ, ông bà nên đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa không chủ trương ly gia cắt ái để đi tu. Ân đất nước: đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa cho rằng tổ tiên, cha mẹ và chúng ta, ai cũng có quê hương đất nước - nơi chôn nhau cắt rốn và nuôi dưỡng mỗi chúng ta. Vì vậy, phải có bổn phận bảo vệ quê hương, đất nước mỗi khi có giặc ngoại xâm, xây dựng quê hương giàu mạnh. - Ân tam bảo: phải đền ơn tam bảo gồm Phật, Pháp, Tăng bằng cách noi theo những lời Phật dạy, truyền bá đến mọi người để loại trừ lòng ham muốn hẹp hòi, cùng hướng tới chân, thiện, mỹ. - Ân đồng bào, nhân loại: phải biết sống với đồng bào bằng tình huynh đệ vì đó là những người cùng màu da, cùng chung cảnh ngộ, cùng chia sẻ buồn, vui. Ngoài ra, mỗi chúng ta còn chung sống với nhân loại trên trái đất, vì vậy không được phân biệt màu da, chủng tộc, phải sống trong hoà bình. Như vậy, tu nhân trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa rất gần gũi với quan niệm “tu nhân tích đức” của người Việt Nam. Tu nhân, với nội dung chủ yếu là thực hiện tứ đại trọng ân của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa là hoà nhập vào cuộc sống thực tại để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống chứ không phải vì kiếp sau. Kinh sách của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là những lời giáo huấn được viết bằng chữ Hán của Đức Bổn sư Ngô Lợi, trong đó có ba bộ kinh chủ yếu là: Bà-la-ni Kinh, Kinh pháp bửu trường sanh và Kinh siêu độ. Mỗi cuốn kinh có nội dung riêng cho từng vấn đề, có thể nêu một số cuốn kinh phổ biến sau: Cuốn kinh đầu tiên là Bà-la-ni Kinh được dùng tụng niệm nhiều trong các dịp cúng lễ. - Cuốn thứ hai là Linh Sơn Hội Thượng Kinh, là cuốn kinh mà tín đồ phải thuộc vì nó hướng dẫn rõ nội dung, nghi thức các bước cúng dường và một số bài kinh tụng hàng ngày. - Hiếu nghĩa kinh là cuốn nói về hiếu nghĩa ở đời. - Siêu thăng kinh là cuốn kinh mang nội dung cầu siêu cứu độ vong kinh các vị tiền nhân có công với đạo, với làng.
Nhà Mồ Ba Chúc - Nơi Lưu Giữ Chứng Tích Tội Ác Pôn Pốt Thật may mắn là mình và các bạn đã được sinh ra vào thời bình, chưa từng chứng kiến và trải qua thời kì khóc liệt của chiến tranh là như thế nào. Nhà mồ Ba Chúc được xây dựng sau khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam giữa Việt Nam và Campuchia kết thúc năm 1979. Nhà mồ Ba Chúc nằm ở thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Đây là di tích lịch sử cấp quốc gia được chính phủ Việt Nam công nhận từ tháng 7 năm 1980. Nơi đây lưu giữ 1.159 bộ hài cốt trong số 3.157 người dân vô tội bị pôn pốt thảm sát , chính vì thế được gọi là nhà mồ.